Tác giả: Regis Martin
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
Từ: crisismagazine.com
WHĐ (22.12.2020) – Sự thánh thiện tuyệt đối trong cuộc đời Thánh Giuse mà chúng ta đánh giá một cách đúng đắn là cao hơn bất kỳ một phàm nhân hay chết nào khác. Chắc chắn là ngoại trừ Chúa Kitô của chúng ta và Mẹ Cực Thánh Vô Nhiễm của Ngài, là Đấng đã được đầy ơn phúc hơn nhiều so với những gì thánh Giuse có thể khao khát trở thành. Điều đó hẳn thật gây bối rối cho thánh Giuse, ngày này qua ngày khác, thấy mình “phải sống” giữa Ngôi Lời Nhập Thể và Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội! Có gì ngạc nhiên đâu khi thánh Giuse không nói lên được lời nào? Phải chăng sự trầm lặng đó vẫn là tấm danh thiếp của ngài?
Mặt khác, Thánh Giuse có bao giờ là một người nói huyên thuyên không? Sự im lặng chắc chắn là hành trang mạnh mẽ của ngài trong suốt cuộc đời. Ngay cả sau khi thiên thần hiện ra trong giấc mơ để khuyên ngài đừng từ chối cho phép Đức Maria sống trong nhà của ngài, bởi vì đứa trẻ mà Mẹ sinh ra là Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã từ trời xuống để “cứu dân Ngài khỏi tội lỗi” (Mátthêu 1:21). Giuse vẫn không nói lời nào. Thay vào đó ngài hành động, với một sự nhanh nhạy đáng ngưỡng mộ và đáng kinh ngạc nhất. Nhưng đó khó có thể là một điều dễ dàng đối với ngài. Tuy nhiên, khi nhẫn nhục chịu đựng cụ thể như thế, ngài đã bộc lộ một trái tim chính trực và kiên quyết nhất. Thật vậy, khi sẵn sàng phục vụ người phụ nữ mình yêu thương, thay vì đưa cô ấy ra trước pháp luật, chúng ta thấy sự vĩ đại của người đàn ông, mà cuộc đời của ông héo mòn trong nỗi nhớ về một lời hứa xa xưa được ban cho dân Thiên Chúa, mà ngài với tư cách là một người con đích thực của dòng dõi Đavít đang khao khát được thấy điều đó hoàn thành. Và giữa những chi tiết chán ngấy nhất của một cuộc sống hoàn toàn bình thường, bị che giấu suốt những năm tháng ở Nadarét, ai sẽ sớm được thấy tất cả những gì đã được Thiên Chúa hứa hẹn giữa Mẹ và Con của Mẹ — những người mà ông, Giuse, đang được yêu cầu gìn giữ và bảo vệ bằng chính cuộc sống của mình?
Tại sao Giáo Hội lại áp dụng tất cả các tước hiệu đó cho một người không tiếng tăm gì và khiêm tốn như Giuse? Không có vị thánh nào khác nơi thiên đàng bảo trợ cho cả Giáo Hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ. Cũng không có vị thánh nào mà những người lao động, hoặc những người sắp chết, có thể chạy đến kêu cầu với sự tin tưởng tuyệt đối, vì Ngài là đấng bảo trợ của họ? Chỉ có Thánh Giuse là người mà Giáo hội yêu cầu chúng ta tôn vinh như là hình mẫu của sự dũng cảm chịu đựng và sự hoàn thiện, và được coi như là Cha của tất cả những ai kêu cầu Ngài.
Tuy nhiên, đối với tất cả điều đó, trong câu chuyện đáng kinh ngạc về ơn cứu độ của chúng ta, phần riêng của Ngài được tỏ hiện ra rất nhiều, dù lờ mờ, trong câu chuyện kể, nhưng chính ngài lại không kể nó. Chứng tỏ sự khiêm tốn thì hùng hồn hơn cả lời nói. Tôi tự hỏi, điều gì đã đưa Ngài đến sự dâng hiến cực độ như thế, trong sự dâng hiến đó, tất cả cuộc đời và từng khoảnh khắc cuộc đời của Ngài là sự tận tụy hoàn hảo và không ngưng nghỉ đối với Mẹ Maria và Hài nhi mầu nhiệm mà Mẹ cưu mang? Một sự thuận phục mặc nhiên, chúng ta đừng quên, mà ngài không buộc phải gánh chịu, dù bằng bất cứ cách nào?
Cha Jacques Philippe, trong một cuốn sách nhỏ tuyệt vời mang tên Tự do Nội tâm[1], nhắc nhở chúng ta rằng kinh nghiệm về tự do đích thực rất thường xuyên đòi hỏi phải chấp nhận điều mà chúng ta không thể thay đổi. Cha gọi đó là “quy luật nghịch lý của cuộc sống con người”, phát triển từ sự thừa nhận rằng “người ta không thể thực sự tự do trừ khi người ta chấp nhận không phải lúc nào cũng được tự do”. Nói cách khác, những khoảnh khắc mà chúng ta có nhiều khả năng trưởng thành trong tư cách một con người – nghĩa là mở rộng tầm thánh thiện của chính mình, như nó vốn có – chính xác lại là những thời điểm mà chúng ta không còn cơ hội để thao túng và làm chủ tình hình. Nhưng vì cuộc sống chủ yếu là một ân huệ, vậy tại sao chuyện chúng ta không thể cai quản mọi thứ lại trở nên quan trọng?
Ánh sáng của nghịch lý đó đổ trên cuộc đời của Thánh Giuse buốt thấu như thế nào. Chẳng hạn, liệu chừng ngài có thể đã hình dung ra được một tình huống nào khác mà trong đó, xét theo bề ngoài, Ngài mất tự do hơn tình huống xuất phát từ việc vị hôn thê của Ngài sinh cho Ngài một đứa con không thuộc về Ngài không? Để cam chịu một tình huống không phải chính mình gây ra? Phải nói những dòng thoại của một kịch bản mà không phải do chính Ngài viết? Phải chăng Ngài không có lựa chọn nào khác? Cha Philippe nói với chúng ta rằng khi đối mặt với những hoàn cảnh mà chúng ta không lựa chọn, đặc biệt là khi những hoàn cảnh đó có vẻ nguy hiểm và xâm phạm, có ba khả năng xảy ra với chúng ta. Trước hết, là sự lựa chọn nổi loạn, từ chối thẳng thừng và nổi loạn khi đối mặt với lệnh triệu tập mà chúng ta không yêu cầu và không hoan nghênh. Cha Philippe nói, rút lui khỏi thực tế trước mắt chúng ta “thường là phản ứng đầu tiên, tự phát, của chúng ta trước khó khăn hoặc đau khổ. Nhưng điều đó không bao giờ giải quyết được chuyện gì”.
Sau đó là chọn lựa từ chức, có nghĩa như “một lời tuyên bố về việc không còn quyền hạn gì nữa, không đi đến đâu. Đó có thể là một giai đoạn cần thiết,” Cha nói thêm, “nhưng nếu dừng lại ở đó thì cũng chỉ là vô ích.”
Điều đó để lại một lựa chọn thứ ba, đó là một thái độ tiếp thu dẫn đến sự đồng ý thực sự và lâu dài. “Chúng ta đồng ý với một thực tế mà ban đầu chúng ta coi là tiêu cực, bởi vì chúng ta nhận ra rằng điều gì đó tích cực có thể nảy sinh từ đó”. Và phẩm chất của niềm hy vọng ẩn giấu trong cử chỉ, cũng như trong việc Thánh Giuse sẵn sàng mở rộng lòng tín thác, trở thành ân sủng, cuối cùng đem lại ơn cứu rỗi. Cha Philippe xác quyết mạnh mẽ nhất về quan điểm này và đảm bảo với chúng ta rằng “điều quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta không phải là những gì chúng ta có thể làm được mà là nhường chỗ cho những gì Thiên Chúa có thể làm. Bí quyết lớn lao của tất cả hoa trái và tăng trưởng thiêng liêng là học biết cách để cho Thiên Chúa hành động.”
Đường học hành trong cuộc đời của Thánh Giuse rất dốc đứng và nhanh vội biết chừng nào. Ngài phải học cách buông bỏ cuộc sống của mình để cho Thiên Chúa đảm trách cuộc sống đó. Và Ngài phải làm điều đó ngay lập tức; rồi thì, cứ như thế lặp đi lặp lại. Không có nhiều người sẵn sàng buông bỏ con người mình nhiều như vậy. Thay vào đó, giống như Eliot’s Prufrock[2], họ thích một cuộc sống “được đong đếm bằng từng thìa cà phê”. Thánh Giuse không như vậy. Cuộc sống của ngài là dấu hiệu thực sự của sự thánh thiện. Cương quyết dốc đổ mọi thứ, bởi vì không có gì ít ỏi hơn mà lại làm được việc. “Hầu hết mọi người”, Bernanos nói, “chỉ cam kết phần ít ỏi nhất của bản thân trong cuộc đời, một phần bé xíu đến nực cười trong con người họ, giống như những người giàu có bủn xỉn chỉ tiêu xài tiền lãi trên khoản thu nhập mà họ kiếm được. Một vị thánh không sống dựa trên lợi tức của thu nhập của mình, hoặc ngay cả trên thu nhập của mình; vị ấy sống bằng vốn liếng của mình, vị ấy cống hiến tất cả tâm hồn của mình… Cam kết tất cả tâm hồn của mình! Ồ, đó không chỉ đơn thuần là một hình tượng văn học.”
Và vì vậy, thánh Giuse, được nâng đỡ bởi đức tin do Thiên Chúa ban cho, sẽ ra khơi trong bóng tối hoàn toàn. Và trong khi Ngài không thể nhìn thấy bến cảng nơi mà sự ấm áp và an toàn đang vẫy gọi Ngài, Ngài vẫn không bị chìm, nhờ ân sủng của sự cậy trông, trong niềm khao khát lớn lao của mình đến được bến bờ bên kia. Giống như giọng nói trong Four Quartets[3] của Eliot , Ngài sẽ nói với linh hồn mình, “Hãy tĩnh lặng … / Vì … vẫn còn niềm tin”
Nhưng niềm tin, hy vọng và tình yêu tất cả đều ở trong sự chờ đợi.
Hãy chờ đợi không ý kiến, vì bạn chưa sẵn sàng để suy nghĩ:
Như thế, bóng tối sẽ thành ánh sáng, và sự tĩnh lặng sẽ thành điệu múa.
(Tác giả Regis Martin là Giáo sư Thần học và Phó Khoa của Trung tâm Veritas về Đạo đức trong Đời sống Cộng đồng tại Đại học Phanxicô Steubenville. Ông có bằng cử nhân và tiến sĩ thần học tại Đại học Giáo hoàng Thánh Tôma Aquinô ở Rôma. Martin là tác giả của một số cuốn sách, bao gồm Still Point: Loss, Longing, and Our Search for God (2012) và The Beggar’s Banquet (Đường Emmaus). Cuốn sách gần đây nhất của ông, cũng được xuất bản bởi Emmaus Road, có tên là Witness to Wonder: The World of Catholic Sacrament.)
[1] ND: Trải nghiệm sự tự do của những người con của Thiên Chúa, cuốn Tự do Nội tâm khiến người ta khám phá ra rằng ngay cả trong những hoàn cảnh bên ngoài bất lợi nhất, chúng ta vẫn sở hữu trong mình một không gian tự do mà không ai có thể lấy đi được, bởi vì Thiên Chúa là nguồn gốc và bảo đảm của nó. Nếu không có khám phá này, chúng ta sẽ luôn bị hạn chế theo một cách nào đó và sẽ không bao giờ nếm được hạnh phúc thực sự. Tác giả Jacques Philippe phát triển một chủ đề đơn giản nhưng quan trọng: chúng ta có được quyền tự do trong lòng mình tỷ lệ thuận với sự phát triển của chúng ta trong đức tin, đức cậy và đức mến. Tác giả giải thích rằng sự năng động giữa ba nhân đức đối thần này là trọng tâm của đời sống thiêng liêng, và ông nhấn mạnh vai trò then chốt của nhân đức hy vọng (đức cậy) trong sự trưởng thành nội tâm của chúng ta. Được viết theo phong cách đơn giản và hấp dẫn, cuốn Tự do nội tâm tìm cách giải thoát cõi lòng và trí não để sống tự do thực sự mà Chúa mời gọi mỗi người.
[2] ND: Bản tình ca của J. Alfred Prufrock, thường được gọi là Prufrock, là một bài thơ của nhà thơ người Mỹ T.S. Eliot, bắt đầu viết từ tháng 2 năm 1910, viết xong năm 1911 và in lần đầu ở tạp chí Poetry (Chicago) bốn năm sau đó (tháng 6 năm 1915). Bản tình ca… là một vở kịch về “nỗi đau đớn của văn học,” nó thể hiện ở dạng một độc thoại đầy kịch tính, và đánh dấu sự bắt đầu sự nghiệp văn học Eliot như là một nhà thơ có ảnh hưởng. Với vẻ chán nản, hối tiếc và sự khát khao nhận thức, một mặt nào đó cũng giống như vở kịch Hamlet với “to be, or not to be” (tồn tại hay không tồn tại). Chủ đề của Bản tình ca… là không thể yêu. Từ không thể yêu đến không thể sống cũng chẳng xa xôi gì, và bài thơ kết thúc bằng lời “ta chết chìm” (we drown).
[3] ND: Bốn khúc tứ tấu (tiếng Anh: Four Quartets) – là một trường ca gồm 4 phần: Burnt Norton (1935), East Coker (1940), The Dry Salvages (1941) và Little Gidding (1942) của nhà thơ Mỹ đoạt giải Nobel Văn học năm 1948 T. S. Eliot. Đây là tác phẩm thể hiện quan niệm thơ ca và triết học của Eliot được hình thành trong những thập niên 20, 30, (thế kỷ XX) tiêu biểu là tác phẩm Ngày thứ tư lễ tro. Eliot kết hợp ở đây khái niệm về linh hồn bất tử của Kitô giáo với cách giải thích khoa học những phạm trù như thời gian, nơi chốn, sự vô tận, sự chuyển hoá liên tục thành những hình thái khác nhau của đời sống…
Để lại một phản hồi