LM Antôn Hà Văn Minh
Vào thứ Hai ngày 07/6/2021, Đức Thánh cha Phanxicô đã ngỏ lời với một nhóm linh mục người Pháp đang làm công tác nghiên cứu về Giáo hội tại Roma: “Hãy đặt để Thiên Chúa và giáo dân vào trung tâm điểm của những mối bận tâm hàng ngày của các con” và linh mục phải là “những người có khả năng biết sống, biết cười và khóc với anh chị em giáo dân của các con, nói một cách dễ hiểu, biết giao tiếp với họ”. Đức Thánh cha nhấn mạnh đến tinh thần hiệp thông cộng đoàn như là khí thở của đời linh mục: “Trong tinh thần huynh đệ sống trong chân lý, trong sự chân thành của các mối tương quan, và trong đời sống cầu nguyện, chúng ta có thể hình thành nên một cộng đoàn, trong đó chúng ta có thể hít thở bầu không khí của niềm vui và sự tế nhị”.
Và vào ngày 17/02/2022, tại điện Vatican trong bài phát biểu khai mạc hội nghị chuyên đề về chức linh mục Đức Phanxicô đã đưa ra đề nghị mang tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ linh mục: Sự gần gũi với Dân Chúa, một sự gần gũi, được phong phú bởi những hình thức gần gũi khác, mời gọi và thực sự đòi hỏi chúng ta phải bắt chước “phong cách” riêng của Chúa. Phong cách đó thể hiện sự gần gũi, từ bi và dịu dàng, trong đó chúng ta đóng vai trò không phải là thẩm phán, mà là những người Samaritanô nhân hậu, những người thừa nhận những vết thương của anh chị em của chúng ta, những đau khổ thầm lặng của họ, sự từ bỏ bản thân và hy sinh của rất nhiều người cha và người mẹ để hỗ trợ những gia đình của họ. Cần phải nhớ rằng dân Chúa đang hy vọng tìm thấy những người chủ chăn theo phong cách của Chúa Giêsu. Không phải “những người làm chức năng giáo sĩ” hay “những chuyên gia tâm linh”, mà là những người mục tử đầy lòng trắc ẩn và quan tâm.
Cẩm nang cho Thượng Hội đồng Giám mục thế giới về tính hiệp hành đã chỉ rõ: “Các linh mục và phó tế có vai trò then chốt trong việc cùng nhau cất bước hành trình giữa dân Chúa, khi họ hiệp nhất với giám mục và phục vụ các tín hữu. Họ có thể nhân danh giám mục thông truyền ý ngài cho các tín hữu và ngược lại họ cũng có thể thông đạt ý của các tín hữu cho giám mục. Họ là những tác nhân hiệp thông và hiệp nhất trong việc xây dựng Thân thể Chúa Kitô, giúp các tín hữu đồng hành với nhau, cùng nhau tiến bước giữa lòng Hội thánh. Tương tự như vậy, các giáo sĩ là những người loan báo về sự đổi mới, chú ý đến nhu cầu triển nở của đàn chiên họ coi sóc, và chỉ cho thấy cách thức Chúa Thánh Thần đang mở ra những nẻo đường mới. Cuối cùng, họ là những con người cầu nguyện, vốn là những người thúc đẩy kinh nghiệm hiệp hành thiêng liêng thực sự, nhờ đó dân Chúa có thể chú ý hơn đến Chúa Thánh Thần và cùng nhau lắng nghe thánh ý Thiên Chúa”.
- Nền tảng của sự hiệp hành trong sứ vụ của người linh mục: Lắng nghe tiếng Chúa
“Linh mục trước hết là thừa tác viên của Lời Chúa, được thánh hiến và sai đi để loan báo Tin mừng Nước Trời cho mọi người, kêu gọi mọi người vâng theo đức tin và dẫn dắt tín hữu tới việc hiểu biết và tham dự mỗi ngày một hơn vào sự thông hiệp mầu nhiệm Thiên Chúa”.
Thế nhưng, trong bối cảnh xã hội hôm nay, người linh mục luôn đứng trước một thách đố lớn lao: làm sao để có thể sống trọn căn tính linh mục như là thừa tác viên của Lời Chúa? Thật vậy, có thể nói, chưa có thời đại nào mà âm thanh trở nên hỗn loạn như ngày nay. Trong xã hội náo động hỗn loạn hôm nay, người ta đang rơi vào căn bệnh “nghiền tiếng ồn”, và đôi khi họ dùng tiếng ồn như là phương thế để khẳng định mình.
Đứng trước hiện trạng đó, người linh mục phải loan báo Tin mừng như thế nào? Phải chẳng lấy tiếng ồn để áp đảo tiếng ồn? Để có thể loan báo Lời Chúa trong thế giới ồn ào hôm nay, trước tiên chúng ta hãy lắng nghe và suy nghĩ về lời Đức Bênêđictô XVI nhắn nhủ qua trong Tông huấn Lời Chúa được công bố vào ngày 11/11/2010: “Lời Chúa chỉ có thể nói và nghe trong im lặng, cả bề ngoài lẫn bề trong. Thời đại ta không phải là thời đại người ta cổ vũ việc tĩnh tâm; có lúc, ta có cảm tưởng người ta sợ phải tách mình, dù chỉ là giây lát, ra khỏi các phương tiện truyền thông đại chúng. Ngày nay, vì lý do đó, điều cần thiết là phải giáo dục dân Chúa biết giá trị của sự im lặng. Tái khám phá tính trung tâm của Lời Thiên Chúa trong đời sống Giáo hội cũng có nghĩa là tái khám phá cảm thức tĩnh tâm và thanh thản nội tâm. Truyền thống vĩ đại của các giáo phụ dạy ta rằng các mầu nhiệm của Chúa Kitô đều bao gồm sự im lặng. Chỉ trong im lặng, Lời Chúa mới tìm được nơi cư ngụ trong ta, như đã tìm được nơi Đức Maria, người phụ nữ của Lời, nhưng một cách không thể tách biệt, cũng là người phụ nữ của im lặng”. Vâng, người linh mục thực thi căn tính của mình như thừa tác viên Lời Chúa trước tiên phải tiếp cận Lời Chúa trong sự thinh lặng “với một tâm hồn ngoan ngoãn và năng cầu nguyện, để lời ấy vào sâu trong tư tưởng, trong xúc cảm của ngài và tạo ra một cái nhìn mới ở trong ngài, tức ‘tâm trí Chúa Kitô’ (1Cor 2:16)”.
Lắng nghe tiếng Chúa là khởi điểm của sứ vụ linh mục mang tính hiệp hành, Đức Phanxicô đã khẳng quyết, phải biết lắng nghe tiếng Chúa để “hiểu thấu được sự hiện diện của Người, nhận ra đường đi và hơi thở ban sự sống của Người”. Cho nên điều cốt yếu của đời sống linh mục chính là “ở với” và “ở lại” với Chúa Giêsu. Căn tính ấy hệ ở “là” linh mục hơn là “làm” linh mục. Mỗi linh mục được Chúa Kitô chọn, gọi và phong chức, do đó thuộc về Chúa Kitô và sống cho Chúa Kitô. Không có linh mục nào ở ngoài Chúa Kitô (x. Ga 15,1-11).
Chính khi tìm lắng nghe tiếng Chúa, người linh mục đặt mình vào một cuộc đối thoại trưởng thành với Chúa và lo lắng cho dân được trao phó cho chính các ngài và tránh khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa là khuynh hướng nói rằng “đây là dân của tôi”. Vâng, đó là dân của anh em nhưng “chỉ là được ủy nhiệm thôi”, Đức Thánh cha giải thích. “Dân không phải là dân của chúng ta, họ thuộc về Chúa”.
Sự hiệp hành trong sứ vụ linh mục được thực hiện từ những cuộc gặp gỡ với Chúa. Nói như Đức Phanxicô: “Sự thân mật với Chúa sinh ra từ lời cầu nguyện, đời sống thiêng liêng, sự gần gũi cụ thể với Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời Người, cử hành thánh lễ, thinh lặng tôn thờ Chúa Giêsu trong bí tích Thánh thể, phó thác cho Mẹ Maria, sự đồng hành dưới sự dẫn dắt khôn ngoan của một cha linh hướng và việc thường xuyên lãnh nhận bí tích Hòa giải… Nếu không có những điều này ‘các hình thức gần gũi’, một linh mục chỉ là một kẻ làm thuê mệt mỏi không được lợi ích gì với tư cách là người bạn thân thiết của Chúa”.
- Ở giữa đàn chiên
Trong tập Chỉ nam linh mục 1989, Bộ Rao giảng Tin mừng đã triển khai về tính hiệp hành trong sứ vụ linh mục:
a/ Kiến tạo sự hiệp thông cộng đoàn
“Việc hiệp thông với các tín hữu đòi hỏi các linh mục phải coi mình như những người cùng với các tín hữu xây dựng dân Chúa, những người được thánh hiến tận căn để lo việc phát triển cộng đoàn, những người hoạt động bằng một đức ái mục tử đích thực: được chọn giữa loài người, nên được đặt lo việc Thiên Chúa vì ích lợi của loài người. Do đó, các linh mục phải kiên trì cầu nguyện cho các tín hữu của mình, hết lòng khuyên bảo họ yêu mến Thiên Chúa là Cha chung; phải biết rõ thực trạng của họ như Chúa Kitô Mục Tử biết các chiên của mình; phải biết sống giữa họ như những người anh em ở giữa các anh em mình phải đồng tiến với họ trên con đường đức tin, trổi vượt và nêu gương sáng cho họ về đời sống Kitô hữu; phải lo tránh tất cả những gì có thể gây nên gương xấu; phải hiệp cùng cộng đoàn làm chứng xác thực về sự trung tín của người Kitô hữu để những người ‘ở xa’ và còn chưa tin Đức Kitô nhận ra được ý nghĩa của sự trung tín đó; phải cảnh giác đừng làm cho mình xa lạ với dân chúng do một lối sống, dù mình không muốn, nhưng lại đặt mình vào một giai cấp xã hội khác”.
Tính hiệp hành nói lên Giáo hội là một cộng đoàn hiệp thông, mọi người hiệp thông với nhau trong cùng một đức tin và một tình yêu. Vì thế sự hiệp thông Giáo hội được thắt chặt và triển nở qua các cuộc đối thoại trong tinh thần đức tin. Đối thoại là cách thế để chia sẻ nhằm giúp Giáo hội thi hành đúng đắn sứ vụ loan báo của mình. Vì thế, tính hiệp hành trong sự hiệp thông chính là mời gọi các thành phần dân Chúa dành thời gian cho việc chia sẻ. Mỗi người được mời gọi “can đảm nói thẳng nói thật (parrhesia) để có thể phối hợp giữa tự do, sự thật và bác ái. Qua đối thoại mỗi người có thể hiểu biết hơn”. Trong cuộc đối thoại với tinh thần hiệp thông Giáo hội thì “mọi người đều có quyền được người khác lắng nghe, cũng như mọi người đều có quyền được nói. Cuộc đối thoại hiệp hành phụ thuộc vào sự can đảm của cả người nói lẫn người nghe. Không phải là sửa soạn lao vào cuộc tranh luận để tranh thắng. Đúng hơn, là đón chào những gì người khác nói như cách thế qua đó Chúa Thánh Thần có thể nói vì lợi ích của mọi người”.
Nhưng làm sao để có thể lắng nghe và đón nhận những phát biểu xem ra chói tai và khó chịu? Trước tiên, phải phân định rõ ràng đây là cuộc đối thoại trong đức tin, bởi đức tin và vì đức tin cho nên “bước đầu tiên để lắng nghe là giải phóng trí óc và con tim khỏi những thiên kiến và khuôn mẫu dẫn vào đường lầm, đưa đến u mê và chia rẽ”, vì thế phải can đảm đi ra khỏi “cái tôi” “bỏ đi thói ảo tưởng tự mãn”, để khiêm cung nhận ra rằng, tất cả mọi người, giáo sĩ và giáo dân, giám mục, linh mục, và mọi tín hữu cùng ngồi chung trong một con thuyền của Hội thánh, cùng bước đi trên một con đường Giêsu, cho nên mỗi người trong chúng ta đều học hỏi lẫn nhau, “đồng hành với nhau và phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể xây những nhịp cầu bắt qua những bức tường đôi khi đe dọa ngăn cách chúng ta, như tuổi tác, giới tính, giàu nghèo, năng lực, giáo dục…”. Và kế đến, mỗi người đều được mời gọi học cách lắng nghe trong sự kiên nhẫn. Đức Phanxicô trong bài giảng thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng về tính đồng nghị đã nói: “Chúng ta có giỏi lắng nghe không? ‘Thính giác’ của trái tim chúng ta tốt đến mức nào? Chúng ta có cho phép mọi người bộc lộ bản thân, bước đi trong đức tin dù họ gặp khó khăn trong cuộc sống, và trở thành một phần của đời sống cộng đồng mà không bị cản trở, từ chối hoặc phán xét không? Học cách lắng nghe lẫn nhau là một bài tập chậm và có lẽ mệt mỏi…. Chúng ta đừng làm cách âm trái tim chúng ta; nhưng phải làm sao để chúng ta không bị bao vây trong những điều chắc chắn của chúng ta. Quá thường là những điều chắc chắn của chúng ta có thể khiến chúng ta đóng cửa. Chúng ta hãy lắng nghe lẫn nhau”.
Người linh mục được mời gọi xây dựng đặc tính duy nhất của hiệp thông giữa các phần tử trong Giáo hội, đặc biệt trong cộng đồng Giáo hội địa phương, đồng thời mở rộng hiệp thông với những ai còn ở ngoài cộng đồng Giáo hội bằng tinh thần hăng say loan báo Tin mừng qua những phương thế và sáng kiến mục vụ thích hợp, điều mà Đức Thánh cha Phanxicô đã chia sẻ: “Đôi khi chúng ta bị cám dỗ để trở thành loại người Kitô hữu sống thờ ơ với các thương tích của Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn chúng ta chạm vào sự khốn cùng của con người, chạm vào da thịt đau khổ của người khác. Ngài hy vọng rằng chúng ta sẽ ngừng tìm kiếm những ngóc ngách cá nhân hoặc cộng đồng, nơi che chở chúng ta khỏi ma trận của sự bất hạnh của con người và thay vào đó, bước vào thực tế cuộc sống của người khác và biết sức mạnh của sự dịu dàng. Bất cứ khi nào chúng ta làm như vậy, cuộc sống của chúng ta trở nên diệu kỳ, và chúng ta trải nghiệm một cách mãnh liệt thế nào là trở thành con người, là một phần của cộng đồng con người”.
b/ Mang lấy mùi chiên
Trong bài giảng thánh lễ Truyền Dầu ngày 28/3/2013, Đức Phanxicô đã nói: các linh mục, những người chăn chiên, phải có mùi chiên. Mùi của chiên hoà quyện vào sứ vụ của người linh mục qua sự hiện diện của người giữa đoàn chiên để cảm nhận được nỗi thống khổ của đàn chiên, sự khát vọng, và nỗi âu lo, niềm vui cũng như những hy vọng của đoàn chiên. Để được như thế, người linh mục phải đi ra khỏi chính mình, nỗ lực canh tân chính mình để trở thành “những người có khả năng biết sống, biết cười và khóc với anh chị em giáo dân, nói một cách dễ hiểu, biết giao tiếp với họ”.
Khi thi hành sứ vụ của người mục tử, người linh mục “mạnh dạn có sáng kiến, đến với người khác, tìm kiếm những người sa ngã, đứng ở các ngả đường để đón mời những người bị gạt ra bên lề”, can đảm “dấn mình vào đời sống hằng ngày của dân chúng bằng lời nói và hành động…; đồng hành với dân chúng ở mỗi bước đi trên đường, bất kể con đường này có thể dài hay khó đi bao nhiêu”.
- Mục vụ bí tích
Như thừa tác viên bí tích, bổn phận trước tiên của các linh mục là cung ứng một sự hiểu biết đức tin về các bí tích, đặc biệt qua việc dạy giáo lý, cho biết các bí tích có một ý nghĩa Giáo hội và quy hướng về Thánh thể, cho biết ý nghĩa của điều kiện căn bản cần có ở nơi người tín hữu để lãnh nhận bí tích và để sống ơn riêng của mỗi bí tích nhờ vào chức tư tế chung của mọi tín hữu. Như thế sẽ tránh cho họ ý tưởng sai lầm coi bí tích như một ảo thuật tự nó phát sinh hiệu lực không liên hệ gì đến đời sống Kitô hữu.
Khi cử hành mục vụ bí tích, người linh mục thể hiện rõ nét tính hiệp hành trong sứ vụ của mình. Vì là hiện thân của Chúa Giêsu, người linh mục biểu tỏ tính cách của Tin mừng. “Tin mừng chứng thực cho cách thức Chúa Giêsu thường xuyên tìm đến những người bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị lãng quên. Một đặc điểm chung trong suốt sứ vụ của Chúa Giêsu là đức tin luôn nảy sinh khi con người được quý trọng: lời cầu xin của họ được lắng nghe, khi gặp khó khăn họ được trợ giúp, sự quảng đại của họ được đánh giá cao, phẩm giá của họ được Thiên Chúa nhìn nhận và được phục hồi trong cộng đồng”.
a/ Việc cử hành bí tích Thánh thể
“Tất cả các giáo sĩ với các thánh ân và đặc sủng được phú ban và lãnh nhận qua việc truyền chức, đều có vai trò quan trọng để bảo đảm rằng kinh nghiệm hiệp hành này là cuộc gặp gỡ đích thực với Chúa Kitô Phục Sinh nhờ đắm mình trong cầu nguyện, được nuôi dưỡng bằng việc cử hành Thánh thể, và được soi dẫn khi lắng nghe Lời Chúa”.
Chính nơi việc cử hành bí tích Thánh thể, người linh mục thực thi tính hiệp hành Giáo hội cách cụ thể qua việc qui tụ dân Chúa, cùng nhau lắng nghe Lời Chúa, và cùng nhau hiệp thông Thánh thể và qua đó mọi người được hiệp nhất với nhau làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô. Vì kết hợp với Chúa Kitô, cộng đoàn Thánh thể tiếp nối sứ vụ của Người. Qua việc cử hành Thánh thể, người linh mục dẫn đưa các tín hữu kín múc sự sống nơi bí tích Thánh thể như suối nguồn, và tiếp tục bước theo gót chân Chúa Giêsu trên con đường loan báo Tin mừng, vì mục tiêu của bí tích Thánh thể là “sự hiệp thông mọi người với Chúa Kitô và trong Người với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần” (x PO, Presbyterorum ordinis, số 5). Khi thi hành sứ vụ mang tính hiệp hành, “các linh mục xác lập vị trí mầu nhiệm Thánh thể ở trung tâm đời sống của mình và của cộng đoàn. Các ngài sẽ không quên rằng chính từ cái nhìn sống động ấy là Thánh thể, các ngài mới có thể rao giảng Lời Chúa có hiệu quả và tập hợp cộng đoàn đã được giao phó cho các ngài. Các ngài cố gắng dẫn đưa các tín hữu đến một sự tham dự thánh lễ cách tích cực bằng việc hiến dâng hy lễ thánh lên Chúa Cha và bằng việc kết hợp chính đời sống của họ với hiến lễ”.
b/ Cử hành bí tích Hoà giải
Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong bài dạy giáo lý về bí tích Hoà giải, đã nói: “Trong việc cử hành bí tích thống hối, vị linh mục không chỉ đại diện Thiên Chúa mà thôi, nhưng còn đại diện toàn thể cộng đoàn nhìn nhận mình ở trong sự mỏng manh yếu đuối của mỗi phần tử, Giáo hội cảm động lắng nghe sự thống hối của phần tử ấy, hòa giải với hối nhân, khích lệ và tháp tùng họ trong hành trình hoán cải và trưởng thành về mặt con người và Kitô”. Chính đây là cách thế hiệp hành của linh mục khi cử bí tích Hoà giải: lắng nghe với tâm tình của người mục tử, khích lệ, ủi an và nâng đỡ hối nhân và phục vụ sự tha thứ của Thiên Chúa.
c/ Cử hành bí tích Xức dầu
Mỗi khi chúng ta cử hành bí tích này, Chúa Giêsu, trong con người của vị linh mục, đến gần những người đau khổ và bị bệnh nặng hoặc người già cả. “Linh mục và những người có mặt trong lúc cử hành bí tích Xức dầu đại diện cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu, như một thân thể kết hợp chặt chẽ chung quanh những người đau ốm và các phần tử của gia đình họ, nuôi dưỡng đức tin và hy vọng của họ, cùng nâng đỡ họ bằng lời cầu nguyện và tình huynh đệ nồng nàn. Nhưng niềm an ủi lớn nhất phát sinh từ thực tại là chính Chúa Giêsu đang hiện diện trong bí tích, là Đấng cầm tay chúng ta, vuốt ve chúng ta như Người đã làm với những người bệnh và nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta giờ đây đang thuộc về Người và rằng không bao giờ có gì – ngay cả sự dữ và cái chết – có thể tách chúng ta ra khỏi Người được”.
- Mục vụ tông đồ giáo dân
Tính hiệp hành trong sứ vụ linh mục được thể hiện rõ nét khi người linh mục đặc biệt quan tâm và cổ võ vai trò của người giáo dân trong sứ vụ tông đồ. ‘Mục vụ đối với giáo dân trước tiên phải để ý đến tính chất giữa đời của họ. Do ơn gọi, người giáo dân tìm kiếm Nước Thiên Chúa qua cách gánh vác những việc trần thế, họ sống giữa đời, trong hoàn cảnh thông thường của đời sống gia đình và xã hội, nhưng họ được Thiên Chúa gọi trở thành men trong lòng thế gian, thánh hoá thế gian nhờ được hướng dẫn bởi tinh thần Tin mừng’. “Trong phạm vi tông đồ giáo dân, các linh mục phải là người xác tín cổ võ giáo dân, huấn luyện giáo dân bằng phương cách thích hợp, động viên họ nhiệt thành dấn thân theo sự thúc đẩy của tinh thần Kitô giáo chân thật. Các linh mục hãy đưa giáo dân vào cơ chế tổ chức và trao cho họ những chức vụ trong cộng đoàn phù hợp với ơn gọi riêng và đặc sủng của họ. Các linh mục không thay thế giáo dân, mà khích lệ họ trong các hoạt động của họ, xác tín rằng sự lớn mạnh của Giáo hội, đặc biệt ở các xứ truyền giáo, phải xuyên qua sự hiện diện năng động của giáo dân có tinh thần trách nhiệm thật và luôn được chuẩn bị chu đáo hơn”.
Công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh về vai trò quan trọng của người linh mục trong đời sống của Giáo hội (x. PO số 1). Quả thật người linh mục vừa là hiện thân của Chúa Kitô, vừa là người mục tử giữa đoàn chiên. Bởi đó, khi thi hành nhiệm vụ linh mục của mình, người linh mục luôn được mời gọi kiến tạo sự gặp gỡ, đối thoại trong đức tin, sẵn sàng lắng nghe với tinh thần khiêm cung, và “dùng cảm thức đức tin mà phát hiện, vui mừng tiếp nhận, và nhiệt tình phát huy những đặc sủng đa dạng của giáo dân, từ ơn nhỏ bé nhất đến ơn cao cả nhất” (PO số 6).
Tuy nhiên, sống trong một thời có quá nhiều thách đố, nhiều khó khăn, nói như Đức Phanxicô: “Thời đại mà chúng ta đang sống không chỉ đòi ta kinh nghiệm sự thay đổi, mà còn phải chấp nhận thay đổi, trong nhận thức rằng thời đại này là một thời đại của những thay đổi mang tầm lịch sử” thì việc thực thi sứ vụ mang tính hiệp hành trước tiên đòi hỏi người linh mục phải kết hợp mật thiết với Chúa. Đây là nền tảng cho việc thi hành sứ vụ của người linh mục, và đây cũng là phương thế duy nhất để người linh mục đạt tới mục đích của ơn gọi mình. Quả thật, đời sống cầu nguyện là phương thế nuôi dưỡng và là sự đỡ nâng phải kể đến việc thực hành cầu nguyện của linh mục, trước hết là chính sự tham dự vào niềm tin và vào sự cầu nguyện của cộng đoàn, và trong các cộng đoàn, sự cầu nguyện phải được dành một chỗ ưu tiên.
Để lại một phản hồi