
Chúng ta đang nói đây về đề tài hết sức nhạy cảm: “Nữ giới tham gia đời sống Giáo hội”. Hầu như bất kỳ thứ gì trên thế gian này, thậm chí cả những điều mà mới chỉ nghĩ tưởng ra thôi, nhưng nếu gắn với nữ giới thì đều trở nên nhạy cảm cả. Chính vì thế, cần phải minh định ngay từ đầu rằng, chúng ta luận bàn về vai trò của nữ giới nói chung, tất cả những ai là nữ với bộ nhiễm sắc thể là XX, chứ không phải riêng về “phụ nữ”, là những người đã có chồng theo sát nghĩa của danh từ này. Và chỉ bàn về vai trò nữ giới trong Giáo hội mà thôi, không nói rộng ra bên ngoài xã hội. Vì đây chỉ là một bài báo, không phải là một khảo luận thần học chuyên sâu, do vậy, bài viết sẽ không quá tập trung vào Thánh Kinh hay huấn quyền cũng như các văn kiện tông tòa về vai trò người nữ, dù sẽ có tham chiếu cách thoáng qua khi thật sự cần thiết. Thay vào đó, bài viết sẽ tập trung vào các hoạt động của con người thời nay về vai trò nữ giới trong Giáo hội, với những tranh luận, những sáng kiến, và hướng đi theo chỉ dẫn của Hội Thánh.
1/ Nền tảng về phẩm giá và vai trò nữ giới
Hình ảnh người nữ luôn hiện diện cách nổi bật trong Thánh Kinh, ngay từ đầu sách Sáng Thế với bà Evà, mẹ của nhân loại, thời Chúa Giêsu với Đức Maria, một mẫu đẹp trinh nguyên rạng ngời, một nhân vật đảm nhận vai trò đặc biệt quan trọng trong Nhiệm Cục Cứu Độ của Thiên Chúa. Trải dài theo lịch sử miền Trung Đông, xuyên qua nền văn hóa Do Thái vốn trọng nam khinh nữ, thế mà các trang Cựu Ước rồi đến Tân Ước vẫn đậm nét khi nhắc tới một số nhân vật nữ giới, những người có thể thay đổi vận mệnh dân tộc và thế giới. Bước theo Chúa Giêsu, các tông đồ còn quyết liệt hơn nữa, nhấn mạnh rằng một khi đã được rửa tội, tất cả mọi người là như nhau về phẩm giá: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô. Mà nếu anh em thuộc về Đức Kitô, thì anh em là dòng dõi ông Ápraham, những người thừa kế theo lời hứa” (Gl 3, 26-29). Đó chính là hoa trái của việc nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu mà Giáo hội được thừa hưởng.
Vậy sau hai ngàn năm là dân riêng của Chúa, Giáo hội hôm nay đã nhìn nhận phẩm giá nữ giới và để cho họ tham gia thế nào vào đời sống Giáo hội? Bài viết sau sẽ trình bày một thoáng nhìn vào thực tại hôm nay về vấn đề này.
Trong thời hậu hiện đại, bên cạnh việc một số người mù quáng chạy theo phong trào nữ quyền cách cảm tính bồng bột thường lên án Giáo hội trọng nam khinh nữ, vẫn luôn có những người hiểu biết hơn về bối cảnh văn hóa từng vùng miền trên bản đồ thế giới, thấy được tác động tích cực của Tin Mừng trong việc nâng cao phẩm giá nữ giới. Những người này trân trọng những nỗ lực của Giáo hội trong việc nhìn nhận phẩm giá nữ giới, tuy vậy, họ vẫn ước ao rằng: nữ giới cần phải được tạo thêm cơ hội và điều kiện để có vai trò thiết yếu hơn nữa trong Giáo hội. Với thành tâm thiện chí, và với các lập luận nghiêm túc từ Thánh Kinh, Thánh Truyền, người ta đặt ra các luận điểm sau:
– Chẳng phải khi chịu bí tích Rửa tội, cả nam và nữ đều lãnh nhận cùng một Thánh Thần sao?
– Chẳng phải ngay từ thời các tông đồ, Thánh Kinh đã đề cập tới chức phó tế của nữ đó sao?
– Chẳng phải trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo đã có “nữ phó tế” như vẫn còn được lưu lại trong bức tranh họa lại cảnh Giám mục Medard ở Noyonvào thế kỷ thứ VI, đang truyền chức cho nữ phó tế Radegonde, đó sao?
– Chẳng phải đã từng có một khoản luật trong Công đồng Calcedonia năm 451 như sau: “nữ giới không được làm phó tế dưới 40 tuổi và phải qua cuộc kiểm tra kỹ càng”, hay sao?
Người ta không khó để tìm lại các tư liệu về chức phó tế thời cổ đại trong tác phẩm The Ministry of Deaconesses của Cecilia Robinson, về các chứng cứ phó tế nữ thời Giáo hội sơ khai. Thêm vào đó, khi đọc Tin mừng, không ai có thể chối cãi thái độ kính trọng của Chúa Giêsu đối với người nữ, và đối lại, các người nữ rất yêu quý và đi theo Người. Tin Mừng nhiều lần ghi nhận các hình ảnh vốn nhạy cảm về tương quan nam nữ trong nền văn hóa Do Thái cổ đại: khi Chúa Giêsu gặp một phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, khi Người được cô Maria lấy tóc lau và xức dầu thơm, khi người nữ đứng dưới chân Thánh Giá, bên mộ đá. Sứ vụ của Chúa Giêsu được thực thi với sự cộng tác của nhiều người nữ mà Đức Maria là nhân vật tiêu biểu không thể không nhắc đến.
“Đôi khi bóng dáng người nữ cũng xuất hiện trong các dụ ngôn được Đức Giêsu thành Nazareth sử dụng để nói về Nước Thiên Chúa cho các thính giả của mình, như dụ ngôn về đồng tiền bị thất lạc (x. Lc 15,8-10), về nắm men (x. Mt 13,32), về các cô thiếu nữ khôn ngoan và khờ dại (x. Mt 25,1-13). Đặc biệt nhất là trình thuật về đồng tiền kẽm của bà góa nghèo. Trong khi “những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền (…), một bà góa túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm”. Chúa Giêsu nói: “Bà góa nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết (…); còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để sống” (Lc 21,1-4). Đức Giêsu đặt bà làm gương cho mọi người và bênh đỡ bà, chỉ vì trong hệ thống xã hội và luật lệ vào thời đó, các bà góa không được ai bảo vệ cả (x. Lc 18,1-7)”.
Ngoài vấn đề chức thánh cho nữ giới còn gây tranh cãi, thế giới không thể phủ nhận vai trò của Giáo hội trong việc nâng cao vị thế người nữ, quan tâm phát triển phẩm giá người nữ qua các hoạt động giáo dục, chống buôn người, bảo vệ nữ giới bị lạm dụng v.v… Cái nhìn thần học Kitô giáo luôn nhất quán về phẩm giá cao quý của người nữ cũng như của người nam. Ngay từ thế kỷ đầu tiên, các tín hữu sơ khai đã nhìn nhận vị trí cực cao cực trọng của Đức Trinh Nữ Maria, rồi liên tiếp trong suốt chiều dài lịch sử từ đó tới nay, ẩn hiện trong các nền văn hóa khác nhau, Giáo hội luôn nhìn nhận vị trí quan trọng của nữ giới với gương mẫu là Đức Maria, về các nữ tu, thành phần thiết yếu làm nên một Giáo hội sinh động, phong phú và thánh thiện.
“Mọi người đều chấp nhận – kể cả những người có lập trường phê phán Tin Mừng Kitô giáo – đối với những người đồng thời, Đức Kitô đã trở thành trạng sư bênh vực phẩm giá đích thực của người nữ và ơn gọi phù hợp với phẩm giá đó. Điều này gây bất ngờ và thán phục, nhưng đôi khi cũng gây cớ vấp phạm: “Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ” (Ga 4,27); vì thái độ này rất lạ lẫm đối với người thời đại. Các môn đệ của Người cũng kinh ngạc. Khi người đàn bà tội lỗi bước vào nhà người Pharisêu để xức dầu thơm lên chân Chúa Giêsu, ông ta nghĩ: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết rõ người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” (Lc 7,39). Khi nghe Chúa Giêsu nói: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31), những thính giả tự mãn đã bực tức và “phẫn nộ vì sự thánh thiện”.
Tuy nhiên, ngang qua các nền văn hóa và chịu sự giao thoa tác động của xã hội cùng thời, cách nhìn nhận và hành xử đối với nữ giới trong các vùng miền đã được rao giảng Tin Mừng, vẫn không thể tránh khỏi sự nhuốm màu của bối cảnh lịch sử. Đây là kinh nghiệm không chỉ riêng của Giáo hội nhưng của bất cứ thể chế xã hội, tôn giáo nào, tất cả đều đã đi vào những thăng trầm của bánh xe lịch sử. Riêng với Giáo hội, người mẹ Công giáo của ta, dù đã có nhiều nỗ lực, dường như vẫn cho thế giới thấy khuôn mặt rất nam tính của mình. Các cơ cấu tổ chức, phẩm trật với những vị đại diện Giáo hội, đều có thể được diễn dịch như thể Giáo hội Công giáo là của nam giới. Cụ thể, bắt đầu từ vị đại diện Chúa Kitô ở trần gian là Đức Thánh Cha, đến các hồng y, giám mục, rồi linh mục, phó tế, tất cả đều là người nam, rồi tới tu sĩ, và sau cùng là giáo dân. Mô hình kim tự tháp này đã tồn tại mãi cho đến thời Công đồng Vatican II mới thay đổi, trải qua những thời kỳ “vàng son” đến tận trung cổ khi mà vua chúa trần gian đều phải dưới quyền Đức giáo hoàng. Từ mô hình kim tự tháp, Vatican II đã chuyển sang mô hình vòng tròn nhưng vẫn luôn là giáo dân, nữ giới ở ngoài rìa còn giới chức giáo sĩ xoay xung quanh Đức giáo hoàng là tâm điểm. Mãi cho đến hôm nay, với Thượng Hội đồng Giám mục đang diễn ra, ý niệm về Giáo hội hiệp hành mới được khai triển, trong đó tất cả mọi người, già trẻ nam nữ, giáo sĩ giáo dân đều đi cùng nhau trên cùng một lộ trình. Từ ý niệm đến các quy luật mang tính pháp lý tương đối dễ dàng, nhưng từ pháp lý đi đến thực tế luôn là một hành trình rất dài và thương đau. Do vậy, Giáo hội Công giáo vẫn đã và đang là một Giáo hội rất là nam tính, dù Giáo hội luôn được định nghĩa là Mẹ.
Điều này khó được chấp nhận trong xu hướng hôm nay, thời đại có các lãnh tụ quốc gia là phụ nữ. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khiêm tốn phát biểu: “Người nữ có nhiều điều để nói với chúng ta trong xã hội ngày nay. Thỉnh thoảng, đàn ông chúng ta chưa tạo không gian cho họ. Người nữ có khả năng nhìn nhận vấn đề khác chúng ta, và có thể đưa ra những câu hỏi mà người nam không hiểu nổi”. (Phát biểu tại Manila 18-1-2015). Tuy nhiên, nếu vội vã cho rằng chức phó tế nữ là một định chế chức thánh hoàn toàn giống như chức phó tế nam thì chỉ có thể là cảm tính, hoàn toàn không phải là kết luận mang tính học thuật hay suy luận khoa học. Bởi lẽ, ngay cả trong cuốn Deaconesses nói trên, thì thông tin bổ ích nhất tác giả trưng ra được đó là: vai trò nữ phó tế trong lịch sử chủ yếu để giúp đỡ nữ giới và trẻ em, đặc biệt trong việc xức dầu toàn thân cho người nữ theo nghi thức rửa tội thời xưa. Trong cuốn sách này, người ta không tìm được chứng cứ nào cho thấy chức phó tế nữ thời các tông đồ là một chức thánh.
2/ Những nỗ lực nâng tầm nữ giới
Ngày nay, người ta nhận ra rằng nữ giới có thể đảm nhận cách tốt đẹp tất cả các vai trò xã hội mà trước đây là độc quyền của nam giới, như giáo dục, y tế, thậm chí cả chính trị, quân sự nữa. Kể từ thời công đồng Vatican II, nữ giới được quan tâm, chú trọng hơn, do vậy vai trò của họ trong Giáo hội cũng thay đổi đáng kể, có nhiều người nữ được tuyên thánh hơn. Người ta ngày càng quen với các chức vụ lãnh đạo cấp cao trong Giáo hội do người nữ nắm giữ. Có những người nữ được mời gọi làm cố vấn cho Hội đồng Giám mục quốc gia, và cũng không thiếu người nữ có vị trí đáng kể trong Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về Hiệp Hành, tiêu biểu là nữ tu Nathalie Becquart hiện là Phó tổng thư ký Thượng HĐGM về Hiệp Hành, một chức vụ hết sức quan trọng và đòi hỏi năng lực chuyên môn cao. Nhờ vậy, sơ là người nữ đầu tiên trong lịch sử có quyền bỏ phiếu tại một Thượng Hội đồng Giám mục của Giáo hội Công giáo. Một nữ tu khác có tầm ảnh hưởng không kém là sơ Patricia Murray, thư ký điều hành các bề trên tổng quyền quốc tế, đã có viễn kiến cởi mở khi nhận định trong hội nghị ngày 16/12/2021 do Đại Sứ Quán Australia, đại học Georgetown, và tạp chí dòng Tên La Civiltà Cattolica tại trụ sở Roma rằng: “Tôi đã chứng kiến vai trò lãnh đạo của nữ giới gia tăng một cách mạnh mẽ”. Ngay tại Vatican, thủ đô của Giáo hội Công giáo, các bổ nhiệm lãnh đạo cấp cao trong thời gian qua là chưa có tiền lệ: nữ giới được lãnh những nhiệm vụ trọng yếu.
Ngày 15/01/2020 Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm bà Francesca di Giovanni làm Thứ trưởng ngoại giao tại Phủ Quốc vụ khanh Vatican, cơ quan quyền lực cao nhất của Tòa thánh. Lần đầu tiên trong lịch sử, Giáo hội Công giáo có người nữ giữ chức vụ cao cấp này. Một năm sau, với cùng một ý chí, Đức Thánh Cha bổ nhiệm sơ Raffaella Petrini thành người nữ quyền lực nhất Vatican với chức Tổng thư ký Phủ Thống Đốc thành Vatican. Nữ tu Carmen Ros Nortes Thứ trưởng Bộ Đời Sống Thánh Hiến, người tiền nhiệm của sơ cũng là một nữ tu còn trước đó luôn là các linh mục. Hai giáo dân nữ đã có gia đình làm thứ trưởng Bộ Giáo Dân, Gia Đình và Sự Sống là các bà Gabriella Gambino và Linda Ghisoni.
Có thể thấy Đức Thánh Cha Phanxicô đương kim đã rất nhất quán giữa ý tưởng và hành động, giữa những bài phát biểu về vai trò nữ giới và các nỗ lực của ngài khi bổ nhiệm các vị trí cao trong Tòa Thánh cho nữ giới mà thế giới mới chỉ được chứng kiến lần đầu. Khi làm như thế, ngài cho thấy rằng ngài không nói suông, cũng không xu thời chỉ để lấy lòng giới truyền thông, nhưng ngài còn tỏ ra là người trước sau như một, những chủ trương trong quá khứ và cách hành xử hiện tại luôn đi đôi với nhau, đặc biệt về vấn đề vai trò nữ giới trong Giáo hội.
Giáo hội Việt Nam do sống trong xã hội nặng tư tưởng nho gia “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô”, trong quá khứ chưa quan tâm tới việc huấn luyện nữ tu nói riêng và nữ giới nói chung, thì nay cũng đang tìm cho mình một hướng đi theo cảm thức Hội Thánh, phù hợp với xu hướng tiến bộ toàn cầu. Bước sang thế kỷ XXI, tại các chủng viện, học viện dòng tu nam, nơi đào tạo hàng giáo sĩ, càng ngày càng có nhiều giáo sư là nữ tu và nữ giáo dân. Bắt đầu chính thức kết thúc thời kỳ độc quyền của nam giới trong vấn đề đào tạo linh mục tại Giáo hội địa phương. Các dòng tu nữ ngày càng chú trọng tới việc đào tạo tri thức, họ gửi học viên đến nhiều viện đại học tại nhiều quốc gia khác nhau, chủ yếu tập trung ở Roma, Paris và Manila, nhưng cũng không thiếu các nữ tu theo học tại các đại học khác của Châu Âu, Châu Mỹ. Riêng tại Học viện Công giáo Việt Nam, cơ sở duy nhất đào tạo chung cho nhân sự trí thức của Giáo hội Việt Nam, số nữ tu theo học chiếm tỷ lệ khá cao, nữ luôn chiếm trên 50% sĩ số học viên trong các khóa học.
Người nữ hôm nay muốn tự khẳng định và độc lập, do vậy họ không thích được khen là “đàng sau sự thành công của đàn ông luôn có hình bóng một người nữ”. Thành quả cuộc sống phải do cá nhân đạt lấy, thành tựu lớn nhất là được trở nên chính mình, được nhìn nhận, được tự do không lệ thuộc. Do vậy, nữ giới ưu tiên khẳng định rằng: “bất cứ điều gì người nam làm được, chúng tôi làm được”. Với não trạng ấy, khi nói tới nữ giới tham gia đời sống Giáo hội, việc đầu tiên nhiều người nghĩ ngay tới đó là chức thánh.
3/ Thần học nữ quyền
Vì không ngại lăn xả vào những cuộc tranh luận, tạo ra những cuộc bút chiến trên lãnh vực suy tư thần học về chức thánh cho nữ, vốn rất nhiều người nhiệt tình tham gia, những người tranh đấu cho bình quyền đã hình thành một trào lưu độc đáo: Thần Học Nữ Quyền. Ngay sau công đồng Vatican II, các nữ thần học gia chủ chốt tiên phong của phong trào này là: Rosemary Radford Ruether, Mary Dale, sau này có thêm rất nhiều nữ thần học gia khác noi theo, tiêu biểu như Elisabeth Schussler Fiorenza, người Đức, tầm ảnh hưởng rất rộng lớn. Chính bà đã tạo ra từ ngữ “Kyriachy”, một từ ngữ chìa khóa của phong trào nữ quyền và đương nhiên của trào lưu thần học về chính nó. Từ này có ngữ căn Hy Lạp kurios: chúa, chủ, diễn ngữ về hệ thống áp bức và phục tùng, do vậy có thể dịch kyriachy là “chế độ cha-chú, chủ nghĩa chủ-nô” theo kiểu người Việt Nam thường dùng “chồng chúa vợ tôi”. Lối tiếp cận Kinh Thánh theo lăng kính chiến lược nữ quyền (cung cách khá giống “thần học giải phóng”) ưu tiên việc tiếp cận Thánh Kinh, đọc lại với óc hoài nghi và thành kiến với nền văn hóa Trung Đông “trọng nam”, nên tìm mọi cách giải thích lại theo ý riêng để có thể hướng sang “trọng nữ”.
Theo thần học nữ quyền, toàn bộ Thánh Kinh chỉ nhằm mục đích nâng đỡ bảo vệ hệ tư tưởng về giải phóng người bé mọn, người bị áp bức, ở đây chính là giới nữ. Những diễn văn, các câu chuyện trong Thánh Kinh phải được diễn giải để minh họa cho vai trò của riêng người nữ, các kết luận luôn được rút ra theo chủ đích mang tính ý thức hệ về nữ quyền. Họ còn đi xa tới mức mạnh dạn đề xuất giới tính Thiên Chúa là nữ, hãy gọi Người là Mẹ. Không tìm xem Lời Chúa nói gì mà chỉ vận dụng Lời Chúa vào ý đồ có sẵn của mình, đây là một cách nguy hiểm khi tiếp cận Thánh Kinh. Và trong khi rất dị ứng với quyền lực, luôn tìm cách loại bỏ quyền thống trị của người nam, thì chính phong trào này lại đang tìm cho người nữ những quyền lực bất khả xâm phạm, kể cả quyền phá thai. Sự hung hăng này bắt nguồn từ nỗi mặc cảm tự ti sau nhiều thế kỷ nam giới thống trị. Trong khi vùng lên, họ tự đánh mất đi vẻ đẹp bản chất nữ tính của mình. Nhiều người nữ trở nên hung hăng bất tận, không khuất phục quyền lực nào và luôn dị ứng với bất kỳ kiểu xử sự nam tính nào. Trào lưu thần học này còn tạo gánh nặng lên chính họ, chỉ vì tập chú vào tự khẳng định bộ nhiễm sắc thể XX, nhiều người đã không để cho bản thân được vui hưởng bình an ngọt ngào của việc được yêu thương, nhưng tự đặt lên vai mình gồng gánh một trách nhiệm trí thức quá lớn, cũng như một tinh thần chiến đấu kiên cường không lệ thuộc, vốn chẳng phải bản chất phái đẹp.
Với nhãn quan Giáo hội học bị lệch chuẩn khi không nhìn bằng con mắt đức tin, mà chỉ nhìn bằng con mắt thành kiến xã hội, cho rằng “Giáo hội đã bị nam hóa”, các tổ chức nữ quyền luôn cảm thấy nhu cầu san phẳng giới tính trong tất cả chiều kích cuộc sống, luôn nhìn vào Giáo hội với lăng kính của một chiến binh. Họ dùng ý thức hệ để diễn nghĩa Thánh Kinh và để cấu trúc lại Giáo hội theo hướng nữ quyền. Do vậy, có thể gọi đó là “thần học giải phóng người nữ”, “Thánh Kinh của nữ giới”. Quả vậy, Hội Thánh Tin Lành Hoa Kỳ từ rất sớm đã có Women’s Bible từ năm 1895, tiếp theo là cuốn Chú Giải Women Bible Commentary. Bên Công giáo dù đi sau nhưng cũng mạnh mẽ chẳng hề thua chị kém em, họ chờ đợi Vatican II gỡ nút thắt cởi trói họ, do vậy, khi không được như ý nguyện, họ phản ứng rất mạnh. Trong số này phải kể đến bà Mary Dale, nhà thần học nổi tiếng về đấu tranh không mệt mỏi cho nữ giới, lừng lẫy hơn nữa với tuyên bố: “Nếu Thiên Chúa là nam thì mọi đàn ông đều là Thiên Chúa”, và rồi, “nữ chiến binh” này rời bỏ Giáo hội. Thật đáng tiếc! Tinh thần chiến đấu mạnh bạo là đặc trưng của các tổ chức nữ quyền, trước đây đã từng có một nữ tu người Việt, hoạt động ở Philippines, đi lên đặt tay cho các tân chức linh mục ngay trong nghi thức truyền chức bên Manila. Gần đây hơn, một nữ tu gốc Việt khác bên Úc đã cùng đồng tế với linh mục và truyền phép Thánh Thể trong Thánh Lễ tạ ơn khấn trọng của mình. Trong tinh thần chiến đấu bất khuất đó, một số cá nhân và hiệp hội nữ quyền đã phản đối kịch liệt Đức Thánh Cha khi ngài trả lời “không” với chức phó tế nữ vào tháng tư vừa qua. Họ cho rằng “nữ giới bị phản bội, rằng họ bị tước mất quyền “chiến đấu” trên mặt trận “tác vụ thánh chức”, và rằng họ không có quyền căn bản của con người.
Với lương tâm thời đại, một số chức sắc cao cấp của Giáo hội cũng ủng hộ mạnh mẽ phong trào nữ quyền, bất chấp những quy định và giáo luật hiện tại. Giáo hội Đức với Công nghị riêng của mình đã đi đến khẳng định rằng: “Không có vị trí lãnh đạo của người nữ thì không hợp với Thánh Kinh”. Họ tìm những bằng chứng để tố cáo Giáo hội không quan tâm tới nữ giới, trưng ra những chứng cứ hỗ trợ cho lập luận của họ, như chỉ ra rằng một cuộc nghiên cứu trong Áo quốc cho thấy các thiếu nữ của nước này càng ngày càng xa Giáo hội vì không còn thấy thích hợp nữa. Họ đổ lỗi rằng Giáo hội rất khác biệt và lạc lõng so với tiếng nói của truyền thông đại chúng về vấn đề giới tính, viện lẽ rằng trong khi nhiều nơi nhiều tổ chức luôn ủng hộ chức nữ phó tế mà Giáo hội lại nói “không”.
Đôi khi có những luận điểm không thể chấp nhận nhưng lại xuất phát từ khao khát cống hiến chân thành. Đơn cử vụ ở Pháp quốc đầu năm 2020, khi Tòa Giám Mục Lyon trống ngôi thì một nữ giáo dân, bà Anne Soupa 73 tuổi và là mẹ của bốn con, đã nạp đơn ứng cử chức giám mục. Với lợi thế tri thức và vị trí xã hội của một nhà báo, nhà văn, thạc sĩ thần học tại đại học Lyon, bà cho rằng mình xứng đáng chức giám mục, bà nói: “Tôi là người gần gũi với thực tế cuộc sống. Mọi người nữ đều có thể mang lại sức sống mới cho Giáo hội, tất cả họ, bởi vì cho đến nay họ đã bị loại trừ khỏi các trách nhiệm”.
Dù suy tư thần học về chức nữ phó tế trong Giáo hội Công giáo vẫn bị bế tắc, người ta vẫn tiếp tục nuôi niềm hy vọng. Điều này được phản ảnh qua lời của linh mục Giám đốc Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Học viện công giáo Paris, Luc Forestier: “Từ quan điểm phương pháp luận khoa học, trong mọi trường hợp đều coi công việc của sử học là chặng đầu tiên, nhưng không vì thế nó được phép khép lại tranh luận”. Người ủng hộ chức nữ phó tế bên phương Tây đang tìm kiếm ngôi sao hy vọng tại phương Đông, nơi chức nữ phó tế được áp dụng trong nhiều thế kỷ, và nay họ đang tìm cách khôi phục lại. Toà Thượng phụ Chính thống Hy Lạp Alexandria và toàn Phi châu đã phong chức phó tế cho một người nữ ngày 02/5/2024 vừa qua, tại Zimbabwe. Đây là nữ phó tế đầu tiên của Giáo hội Chính thống Hy Lạp ở Phi châu trong thời hiện đại.
4/ Nhận định
Bình đẳng giới theo nghĩa san phẳng giới tính chưa hẳn là công bằng. Bởi lẽ nhân danh bình đẳng giới nam nữ như nhau, người ta có thể đòi hỏi bé gái phải lãnh lấy các việc nặng tay chân lẽ ra nên dành cho bé trai. Người vợ trong gia đình, người nữ ngoài xã hội phải thực hiện các việc lam lũ khác như khai thác hầm mỏ, leo trèo cột điện khi nắng mưa, hay khuân vác vũ khí hạng nặng ở chiến trường v.v… Với lương tri không bị méo mó, chúng ta không cần phải nghiên cứu y học mới hiểu được rằng, có những công việc phù hợp hơn với cơ thể sinh học nam giới, có những việc tỉ mỉ chi tiết cần tới hơn đến sự tinh tế nhẹ nhàng của nữ, vốn là tố chất Thiên Chúa đã thiết định nơi cơ thể của nam và của nữ. Mỗi người có những trách vụ khác nhau làm nên một cộng đồng sinh động phong phú. Thần Khí cho chúng ta biết rằng: con người được tạo dựng có nam có nữ. Điều này cho thấy giới tính là một điều tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho nhân loại và có vai trò thích hợp riêng biệt. Bất kỳ ai từ chối, hay san phẳng giới tính đều đi ngược với ý muốn của Chúa. Mỗi cá nhân sinh sống, phát triển, hoàn thiện theo Ý của Thiên Chúa, do vậy vai trò và chức năng của mỗi người cần phải phù hợp với giới tính của mình. Để hiểu rõ hơn, chúng ta hãy nghe lại lời thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côrintô:
“Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người.
Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người”.
Có nhiều người nữ đi theo Chúa Giêsu, đáng kể trước tiên là Mẹ Maria vì sự nổi bật trong ân sủng và tư cách hàng đầu trong tương quan, vốn không ai có thể thay thế, sánh bì, thế nhưng Chúa Giêsu đã không mời gọi Mẹ Maria hay một ai trong số người nữ vào danh sách các tông đồ. Thay vào đó, Người mời gọi mười hai người nam vào sứ vụ đặc thù, thừa tác viên cử hành các bí tích. Với nhãn quan của vị đại diện Chúa Kitô trên trần gian, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo cao cấp nhất cho nữ vốn chưa hề có tiền lệ, nhưng vẫn giữ lập trường không truyền chức thánh cho nữ giới. Ngài không phủ nhận hay đánh giá thứ yếu vai trò của nữ giới đâu, nhưng về chức thánh ngài phải thực hiện theo và trong kế hoạch của Thiên Chúa. Ngài từng tuyên bố:
“Một Giáo hội không có người nữ giống như cộng đoàn các Tông đồ không có sự hiện hữu của Đức Maria. Vai trò của người nữ trong Giáo hội không chỉ đơn thuần là vai trò nuôi dưỡng Giáo hội, sống thiên chức làm mẹ, mà còn hơn thế rất nhiều: vai trò của nữ giới chính là trở thành biểu tượng, thành hình mẫu của Đức Trinh Nữ, của Mẹ Maria; là điều giúp cho Giáo hội lớn mạnh!” (WYD BRAZIL ngày 28/7/2013).
Với một sự thận trọng trước một chủ đề mang tính thần học, Đức Thánh Cha Phanxicô đã không trả lời theo cảm tính hay theo trào lưu, ngài đã rất quyết đoán khi trả lời chức thánh chỉ dành cho nam giới, bởi chính ngài có được các đúc kết thần học từ các cuộc nghiên cứu, suy tư, đối thoại về luận đề “nữ phó tế” do chính ngài khởi xướng. Gần đây nhất, khi chương trình CBS Evening News phỏng vấn 20/4 vừa qua, Đức Thánh Cha đã một lần nữa nói “không” với chức thánh cho nữ giới. Và để làm sáng tỏ hơn, khi người dẫn chương trình đề cập tới dự án nghiên cứu về khả thể chức phó tế nữ thì Đức Thánh Cha đã đáp lại rất rõ ràng thế này:
“Nếu đó là các (nữ) phó tế với chức thánh thì không. Nhưng tôi có thể nói, nữ giới luôn có chức năng của một người nữ phó tế mà không phải là (chức thánh) phó tế, phải không? Nữ giới phục vụ rất tốt với tư cách là người nữ, chứ không phải với tư cách là thừa tác viên, với tư cách là thừa tác viên về vấn đề này có nghĩa là trong các Chức Thánh.”
Lời khẳng định trên về việc không truyền chức phó tế cho nữ trong Giáo hội Công giáo, chắc chắn làm cho không ít người nản lòng thất vọng, cũng như làm rất nhiều người ngỡ ngàng ngạc nhiên về một vị Giáo hoàng tưởng như đã rất cởi mở về vấn đề này. Do vậy, ngay lập tức không chậm trễ, The Women’s Ordination Conference (WOC), một tổ chức được thành lập từ năm 1975, cơ quan lâu đời nhất và mạnh mẽ nhất ủng hộ việc truyền chức thánh cho nữ giới, đã phản hồi rằng “họ rất lấy làm thất vọng”, rằng “Đức Thánh Cha đã thất bại trong việc nhận ra chiều sâu của ơn gọi nữ giới”. Có lẽ đối với một số khác, họ thận trọng hơn trong khối cổ vũ trên, nên không dám kỳ vọng Đức Thánh Cha mở ra ngay khả thể cho việc truyền chức nữ vào thời điểm này, nhưng họ hy vọng ngài dùng kế hoãn binh để đưa câu trả lời hứa hẹn đầy thiện ý vào một tương lai gần thay cho câu phủ định hết sức phũ phàng đối với họ.
Vấn đề chức thánh cho nữ giới, nếu chỉ nhìn bằng lăng kính xã hội học hiện đại, chẳng có gì là khó hiểu khi không để cho người nữ đảm nhận vai trò thực thi, ngoài việc người nam đang cố chiếm hữu độc quyền. Tuy nhiên, khi đào sâu thần học lịch sử và Giáo hội học về vấn đề này cho thấu đáo, nó lại rất phức tạp và dài hơi, chúng ta không thể kết luận các nữ phó tế thời Giáo hội sơ khai cùng một vai trò với phó tế nam. Trong Công đồng Vatican II vấn đề này đã được nêu lên cùng với việc khôi phục chức phó tế vĩnh viễn, và rồi chính Đức Thánh Cha Phanxicô vào cuối năm 2016, đã truyền thêm cảm hứng vào phong trào nữ quyền, khi lập ra ủy ban nghiên cứu khả thể về chức phó tế nữ trong những thời kỳ đầu của Giáo hội.
Thật vậy, đây là một chủ đề thần học lịch sử tế nhị, phức tạp, cần phải được nghiên cứu sâu rộng hơn nữa để có thể đưa ra luận điểm đúng theo Ý định của Thiên Chúa. Vai trò thực sự của nữ phó tế thời xa xưa vẫn là điều còn tranh luận, nó thuộc về yếu tố lịch sử khác biệt so với những đòi hỏi hôm nay. Sách Giáo Lý các Tông Đồ cho biết, việc phục vụ của nữ phó tế không giống như của nam phó tế, nghĩa là nữ phó tế chỉ lo việc cho nữ giới trong khi nam phó tế lo những việc cần thiết hơn. Văn kiện mang tính huấn quyền cao trong thời hiện đại là Tông thư Mulieris Dignitatem của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II năm 1988, làm nổi bật vai trò là mẹ và là vợ của nữ giới mà không hề đề cập tới chức thánh phó tế nữ.
Như vậy việc Giáo hội không truyền chức phó tế nữ thuộc về lãnh vực thần học lịch sử, chứ không thuộc năng lực. Nữ giới thời nay đã được trang bị kiến thức vượt hẳn ngày xưa. Bảng thống kê của UNESCO năm 2019 khi nhìn lại đoạn đường phát huy giáo dục trẻ em nữ toàn cầu cho thấy số năm mà các thiếu nữ ngày nay được đến trường nhiều gấp đôi số thời gian mà các trẻ nữ có cách đây 50 năm. Với các nước phát triển, số năm các trẻ em gái đến trường thời nay là 17 năm, nghĩa là họ đều học hết đại học. Tuy có nhiều tiến bộ, thế giới vẫn chưa phẳng, tại khu vực Châu Phi và cận Sahara các em gái được đến trường vẫn còn thấp hơn nhiều so với các vùng khác. Vùng Đông Nam Á phát triển không mạnh mẽ như Châu Âu nhưng cũng khá ấn tượng, số năm học bình quân của các thiếu nữ hiện tại là 13,4 năm. Nhờ trí thức, cùng với học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo, nữ giới ngày càng được nâng cao vị thế và tham gia vào đời sống Giáo hội cách tích cực hơn. Trước đây người nữ thường chỉ được kỳ vọng trong vai trò cầu nguyện, siêng năng kinh lễ, người mẹ và vợ kiểu như “đã giỏi chiều chồng lại khéo nuôi con” v.v…
5/ Kết luận
Vai trò của nữ giới ngày nay đã tiến triển một bước khá xa. Giáo hội đã đặt những người nữ nắm giữ những vai trò điều hành ở các cấp cao nhất tại Vatican. Chỉ chăm chăm đóng khung vai trò nữ giới vào chức thánh – chức phó tế, là giảm thiểu chức năng của người nữ, và cũng là hiểu sai về chức thánh như một việc phục vụ mà thần học Công giáo cho tới nay vẫn cho là phận vụ của nam giới. Thật vậy, vai trò của người nữ theo gương Đức Mẹ Maria trong chương trình cứu độ nhân loại còn to lớn hơn nhiều, quan trọng hơn nhiều, vai trò của các nữ thánh qua các thời kỳ rất đa dạng phong phú dù thầm lặng, kín ẩn. Họ có thể là các trinh nữ chuyên chăm cầu nguyện hiến dâng phục vụ trong các tu viện, đan viện, là những người vợ, người mẹ nội trợ, nhà giáo dục con cái sống thánh thiện, là niềm tự hào của người chồng và những đứa con, nhân tố làm nên một gia đình bền vững và đạo đức. Ưu thế vô đối của người nữ trong việc tham gia vào đời sống Giáo hội, chính là khi họ nhận ra và sống tròn thiên chức làm mẹ làm vợ, họ có thể “thông truyền những ý nghĩa sâu xa nhất của việc đạo đức… Không có các bà mẹ, không những sẽ không có tín hữu mới, mà đức tin sẽ mất đi một phần…”. Thật vậy, thế giới ngày càng nhiều các người nữ tài năng, nhưng thế giới ấy vẫn đang khát mong những người mẹ đạo hạnh, luôn bao dung tha thứ.
Do đó, để nữ giới tham gia và đời sống Giáo hội, không phải là san phẳng giới tính rồi trao cho họ đảm nhận những trách vụ bất kể, nhưng chính là tôn trọng phẩm giá đúng đắn của người nữ, đồng thời phân công phân nhiệm sao cho mỗi giới làm các công việc phù hợp với các thông số sinh học của giới mình theo kế hoạch của Thiên Chúa. Cần nói rõ ràng rằng, so với người nam, người nữ được tạo hóa sinh ra có nhiều ưu điểm hơn về sự tinh tế, khéo léo, nhanh nhạy trực giác, cảm xúc, nhưng yếu hơn về cơ bắp thể lý cũng như về suy luận thuận lý. Đó là vì trung bình não bộ của nữ nhỏ hơn của nam, nhưng lại chứa nhiều tế bào nơron thần kinh hơn. Hơn nữa, không giống với bên nam, bán cầu não phải của nữ giới lớn hơn bên trái, họ sẽ thiên về ngôn ngữ, tình cảm, linh tính trực giác, chứ không giỏi về chỉ huy và suy tư lý luận vốn thuộc ưu thế của nam giới với bán cầu não trái ưu việt hơn. Nhớ rằng: công việc nào người nữ cũng làm được, nhưng không phải công việc nào cũng để người nữ làm.
Một điều tế nhị trong bối cảnh có nhiều phong trào nữ quyền, việc chỉ suy tư Thánh Kinh với nền văn hóa thượng cổ mà bỏ qua không áp dụng các dấu chỉ thời đại cũng như các khoa học nhân văn ngày nay, rồi từ đó giới hạn vai trò người nữ ở thiên chức làm mẹ và làm vợ mà thôi, thì cũng là điều phong trào nữ quyền khó chấp nhận. Khi soi chiếu vào Mẹ Maria, một nguyên mẫu tinh khôi tuyệt hảo của nữ giới, với nhãn quan thế kỷ XXI, họ sẽ nhận ra vai trò quan trọng của Mẹ không chỉ gói gọn ở gia đình. Cuộc đời Mẹ Maria không phải là bóng hình ẩn khuất phía sau người chồng Giuse thành công, ngược lại, Mẹ chính là nhân vật chính nổi bật trong nhiệm cục cứu độ. Mẹ chủ động thưa Xin Vâng và đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa, là chủ thể tác động để có được phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana, Mẹ ngược xuôi cùng Chúa trên mọi nẻo hành trình rao giảng Tin Mừng, cho tới chân Thánh Giá, cho đến huyệt mộ sau cùng. Mẹ cũng là người có mặt và ở giữa các tông đồ trong ngày khai sinh Giáo hội. Biết bao vai trò nữ giới được rút tỉa từ người Mẹ tuyệt mỹ như vậy. Được khởi hứng từ Mẹ Maria và với ơn Chúa, ngày càng có nhiều người nữ hiện diện trong các hoạt động tông đồ xã hội, giáo dục cũng như các chương trình y tế từ thiện của Giáo hội. Dù vậy, họ không đòi chức thánh, bởi họ hiểu được rằng chức thánh không phải là một “quyền”, nhưng là một “việc phục vụ” được bắt nguồn từ việc hiến thân tự hủy của Chúa Giêsu và Người trao cho nam giới.
Với việc ngày càng nhiều người nữ hoạt động tông đồ xã hội, cả ở thượng tầng kiến trúc như suy tư thần học, giảng dạy tri thức; với việc đang có nhiều thay đổi vị trí lãnh đạo cao cấp tại Giáo triều Rôma tạo cơ hội cho nữ giới phát huy vai trò đẹp đẽ của mình, Giáo hội đang biểu lộ cho thế giới thấy dung mạo nữ tính hơn của mình, như là hiền thê của Chúa Kitô và là Mẹ Hội Thánh. Thật dễ chịu khi Giáo hội hành xử bớt nam tính hơn, đồng nghĩa với việc thu hẹp dần không gian lối sống giáo sĩ trị, vốn sẽ không còn chỗ đứng trong một Giáo hội hiệp hành. Nhiều người nữ đã bắt được nhịp sống của Giáo hội, “sống cảm thức cùng Giáo hội”, họ đang dấn thân cầu nguyện và hành động vì một Giáo hội hiệp hành, nơi đó mọi người cùng nhau tiến bước. Trong một Thân Thể Chúa Kitô chịu nhiều thương tích, sự dịu dàng và lòng trắc ẩn là điều cần thiết biết bao, mà điều này vốn có sẵn ở bản chất nữ giới.
Theo ý định của Thiên Chúa, người nam không nên sống thiếu người nữ, cả hai sẽ bổ trợ cho nhau để làm thành một dân tộc thánh thiện và được yêu thương. Ý thức rất rõ điều này, Đức Thánh Cha Phanxicô luôn đánh giá cao vai trò của nữ giới và những đóng góp của họ cho Hội Thánh trong các lãnh vực bác ái giáo dục và cầu nguyện. Không dừng ở đó, ngài thúc đẩy Giáo hội nghiên cứu và mạnh dạn trao cho nữ giới nhiều vai trò hơn. Chính ngài đã đi tiên phong trong việc bổ nhiệm các vị trí nữ tại các cơ quan Toà thánh. Riêng tại Giáo hội Việt Nam, dù học vấn của nữ giới, trong đó có các nữ tu đã được cải thiện đáng kể như đã nói trên, thì trong các Ủy ban cấp Giáo phận, hay trong ban đại diện cộng đoàn (Hội đồng mục vụ giáo xứ), nữ giới chỉ là thiểu số nhỏ nhoi, lọt thỏm mất hút trong ngút ngàn đàn ông. Nữ tín hữu tại Việt Nam vẫn đang thể hiện vai trò của mình là người đứng sau, với các tu viện đông đảo nữ tu, với các giáo xứ có nhiều hội đoàn đạo đức mà nữ giới chiếm tuyệt đại đa số. Giáo hội Việt Nam chưa dám mạnh dạn trao cho người nữ các phận vụ quan trọng trong cơ cấu lãnh đạo. Do vậy, khi minh họa điểm tích cực cho luận đề “nữ giới tham gia đời sống Giáo hội”, chúng ta có thể mau mắn trưng ra các thay đổi tại Giáo triều Rôma, còn chẳng hề dễ dàng minh họa các ví dụ hữu hình và cụ thể tại giáo hội địa phương.
Lễ Đức Mẹ Lên Trời 2024
Lm. Phêrô Nguyễn Đức Thắng, Giáo phận Long Xuyên
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 143 (Tháng 9 & 10 năm 2024)
Để lại một phản hồi